Hệ thống, phân loại và tiến hóa Họ_Quạ

Choàng choạc hung (Dendrocitta vagabunda).Giẻ cùi mỏ vàng (Urocissa flavirostris).Quạ thông Á Âu (Garrulus glandarius) tại Israel.Ác là châu Âu (Pica pica)Quạ thông mào nhung (Cyanocorax chrysops)

Các hóa thạch chim dạng quạ có sớm nhất có niên đại vào khoảng Trung-Miocen, khoảng 17 Ma; các chi MiocorvusMiopica một cách tương ứng có thể là dòng dõi tổ tiên của quạ và ác là, hay tương tự như các dạng còn sinh tồn do tiến hóa hội tụ.

Trong nhiều năm người ta vẫn chưa đồng thuận về mối quan hệ tiến hóa chính xác của họ Quạ và các họ hàng của nó. Một điều dường như rõ ràng là họ Quạ có nguồn gốc từ các tổ tiên ở Australasia và từ đây đã lan tỏa ra khắp thế giới. Các dòng dõi khác xuất phát từ các tổ tiên này đã tiến hóa để có đa dạng sinh thái, nhưng thông thường vẫn là từ các nhóm ở khu vực Australasia. Sibley và Ahlquist[4] đã hợp nhất các loài họ Quạ với các đơn vị phân loại khác trong cận bộ Quạ (Corvida). Các họ hàng dạng quạ mà người ta ước đoán là quạ bách thanh (Strepera spp.), chim thiên đường (Paradisaeidae), whipbird (Cinclosomatidae), hoét cút (Cinclosoma spp.), bách thanh lưng nâu (Pachycephalidae), đớp ruồi vuachèo bẻo (Dicruridae), bách thanh (Laniidae), vireo (Vireonidae) và vanga (Vangidae),[5] nhưng nghiên cứu hiện thời lại nghiêng về lý thuyết cho rằng việc gộp nhóm như vậy phần nào mang tính nhân tạo. Họ Quạ tạo thành nhóm cốt lõi của siêu họ Quạ (Corvoidea) cùng với các họ hàng gần gũi nhất – dường như là chim thiên đường, quạ cánh trắng (Corcoracidae) và bách thanh – và của cận bộ Corvida, và cận bộ này chỉ nên gộp siêu họ Corvoidea cùng các nhóm có quan hệ họ hàng thật sự như vàng anh (Oriolidae) và vireo.[6]

Sự gạn lọc các mối quan hệ liên họ của họ Quạ đã đạt được phần nào trên cơ sở phân tích miêu tả theo nhánh một vài chuỗi ADN.[6][7] Các loài quạ thông và ác là/giẻ cùi không tạo thành các dòng dõi đơn ngành, mà dường như cần chia tách một cách tương ứng thành các dòng dõi Tân thế giớiCựu thế giới (đối với quạ thông), cùng các dòng dõi Holarctic (phương Bắc) và phương Đông (đối với ác là/giẻ cùi). Các dòng dõi này không có quan hệ họ hàng gần gũi với nhau. Vị trí của ác là cánh lam, luôn luôn là một điều bí ẩn lớn, thậm chí còn không rõ ràng hơn so với trước đây.

Quạ thông mào (Platylophus galericulatus) thông thường theo truyền thống đặt vào họ Corvidae, nhưng có thể không phải thành viên của họ này, mà có thể gần gũi với chi Prionops (họ Prionopidae) hay bách thanh (họ Laniidae) hơn; tốt nhất hiện thời nên coi nó như là thuộc nhóm Corvoidea incertae sedis.[1][8] Tương tự, "giẻ cùi" đất Hume (Pseudopodoces humilis) trên thực tế là thành viên của họ sẻ ngô (Paridae).[9]

Hóa thạch

Các chi họ Quạ thời tiền sử có lẽ chủ yếu là của các dòng dõi quạ thông/giẻ cùi Cựu thế giới và Tân thế giới cùng ác là Holarctic:

  • Miocorvus (Trung Miocen ở Sansan, Pháp)
  • Miopica (Trung Miocen ở tây nam Ukraina)
  • Miocitta (lạch Pawnee, Hậu Miocen ở quận Logan, Hoa Kỳ)
  • Corvidae chi không rõ loài mơ hồ (gen. et sp. indet.) (Edson Tiền Pliocen ở quận Sherman, Hoa Kỳ)[10]
  • Protocitta (Tiền Pleistocen ở Reddick, Hoa Kỳ)
  • Corvidae chi không rõ loài mơ hồ (Tiền/Trung Pleistocen ở Sicilia) – có lẽ thuộc về chi còn sinh tồn
  • Henocitta (tầng đất sét Arredondo Trung Pleistocen ở Williston, Hoa Kỳ)

Ngoài ra, còn một loạt các loài hóa thạch của các chi còn sinh tồn kể từ Mio-Pliocen, chủ yếu thuộc chi Quạ (Corvus) ở châu Âu.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Họ_Quạ http://www.avesnoir.com http://www.britannica.com/eb/article-9026450 http://www.corvidcorner.com http://ac.els-cdn.com/S0960982205000801/1-s2.0-S09... http://ibc.lynxeds.com/family/crows-corvidae http://www.montereybay.com/creagrus/corvids.html http://news.nationalgeographic.com/news/2004/12/12... http://www.nbbd.com/godo/minwr/research/scrubjay-l... http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S... http://www.sciencedirect.com/science?_ob=MImg&_ima...